Chuyển ngữ: Trần Mỹ Duyệt
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến,
Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”. Mẹ Thiên Chúa đã tiên tri về những lời ca tụng của Giáo Hội dành cho người trong tương lai, lòng tôn sùng Mẹ Maria của Dân Chúa cho đến tận thế. Trong việc tôn vinh Đức Maria, Giáo Hội đã không phát minh một số “tiếp cận” với Thánh Kinh: Giáo Hội chỉ đáp lại với lời tiên tri này, lời tiên tri mà Đức Maria đã nói trong giây phút phúc lộc đó.
Và những lời của Đức Maria không chỉ đơn thuần mang tính cách cá nhân, có thể chỉ là những lời tự mình nói. Isave đầy tràn Chúa Thánh Thần, như Thánh Luca đã nói, đã tuyên xưng lớn tiếng: “Em thật có phúc vì đã tin…” Và Maria cũng đầy tràn Chúa Thánh Thần tiếp nối và hoàn tất những gì Isave đã nói, khẳng định rằng: “muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”. Đây chính xác là một lời tiên tri, được khởi hứng bởi Chúa Thánh Thần, và trong khi tôn vinh Đức Maria, Giáo Hội đáp lại một lệnh truyền của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã làm những gì mình phải làm.
Chúng ta không chúc tụng Thiên Chúa một cách đầy đủ bằng cách giữ im lặng về các thánh nhân của Ngài, đặc biệt Đức Maria, “Đấng Thánh”, đã trở thành nhà của Ngài trên trái đất. Ánh sáng muôn hình và đơn sơ của Thiên Chúa xuất hiện cho chúng ta một cách chính xác qua sự khác biệt và phong phú chỉ có trong diện mạo của các thánh. Các vị là những tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài. Và một cách rõ ràng bằng nhìn ngắm dung nhan của Đức Maria, mà chúng ta có thể thấy một cách trong sáng hơn vẻ đẹp khác biệt, sự tốt lành và lòng thương xót của Thiên Chúa. Trên dung nhan người, chúng ta có thể nhận ra một cách trung thực ánh sáng thần linh.
“Muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”. Chúng ta có thể chúc tụng Đức Maria, chúng ta có thể tôn vinh Đức Maria, vì người “được chúc phúc”, người được chúc phúc đến muôn đời. Và đó là chủ đề của Thánh Lễ hôm nay. Người được chúc phúc vì người hiệp nhất với Thiên Chúa, người sống với Thiên Chúa và trong Thiên Chúa.
Vào buổi chiều Thương Khó của mình, khi sửa soạn lìa bỏ các môn đệ, Chúa nói: “Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ… Ta đi để dọn chỗ cho anh em.”
Bằng câu nói, “Tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa; hãy thực hiện nơi tôi như lời sứ thần nói”, Đức Maria đã chuẩn bị một nơi ở trên trái đất cho Thiên Chúa; bằng thân xác và linh hồn của mình, người trở nên nơi cư ngụ và từ đó đã mở cửa trái đất cho thiên cung.
Trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Luca với nhiều lối diễn tả, làm cho chúng ta hiểu rằng Đức Maria là Hòm Bia Giao Ước thật, rằng mầu nhiệm Đền Thờ nơi Thiên Chúa ngự ở trái đất – được nên trọn nơi Đức Maria. Thiên Chúa, Đấng hiện diện trên trái đất, một cách chính xác ở trong Đức Maria. Maria trở thành lều của Ngài. Những gì tất cả các nền văn hóa mong đợi – rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta – đều được qui hướng về đây.
Như vậy, trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa trên trái đất, trong người một chỗ ở vĩnh viễn đã được chuẩn bị, nó đã được sửa soạn từ muôn thuở. Và điều này thiết lập toàn nội dung Tín Điều Lên Trời của Đức Maria, được diễn tả ở đây bằng những lời này, cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc. Đức Maria “được chúc phúc” – một cách hoàn toàn, trong thân xác và linh hồn và cho đến muôn đời – người đã trở nên nơi cư ngụ của Chúa. Nếu điều này là thật, Đức Maria không chỉ thu hút lòng tôn kính và sùng mộ của chúng ta, nhưng còn hướng dẫn chúng ta, chỉ cho chúng ta con đường sự sống, chỉ cho chúng ta làm cách nào chúng ta có thể được chúc phúc, bằng cách nào tìm được con đường dẫn tới hạnh phúc.
Chúng ta hãy nghe một lần nữa những lời của Isave được tìm thấy trong bài ca Ngợi Khen của Đức Maria: “Phúc cho em là người đã tin”. Hành động căn bản và tiên quyết để được trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa, và như vậy tìm được hạnh phúc viên mãn là tin: Là đức tin, tin vào Thiên Chúa, trong đó Thiên Chúa, Đấng đã cho thấy chính mình Ngài trong Đức Giêsu Kitô, và làm cho tiếng Ngài được nghe qua những Lời Thần Linh trong Sách Thánh.
_______
LỄ TRỌNG KÍNH ĐỨC TRINH NỮ MARIA LÊN TRỜI
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICT XVI
Tại thánh đường giáo xứ St. Thomas of Villanova, Castel Gandolfo
Thứ Tư, 15 tháng Tám, 2006
Nguồn: Libreria Editrice Vaticana
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?